Ban Dich 2011

1 Các Vua 8:39-57 Ban Dich 2011 (BD2011)

39. thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, tha thứ, hành động, và báo trả mỗi người tùy theo điều Ngài biết nơi lòng họ, và tùy theo các đường lối của họ –vì chỉ một mình Ngài biết rõ mọi sự trong lòng người–

40. hầu họ sẽ kính sợ Ngài trọn đời của họ mà sống trong xứ Ngài đã ban cho tổ tiên chúng con.

41. Ngoài ra, khi có người ngoại quốc nào, không phải là dân I-sơ-ra-ên của Ngài, từ một xứ xa xăm đến đây vì đã được nghe đến uy danh Ngài –

42. vì người ta sẽ nghe về đại danh của Ngài, về tay quyền năng của Ngài, và về cánh tay Ngài đã đưa ra– khi người đó đến và hướng về ngôi đền nầy cầu nguyện,

43. thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe và đoái nhậm mọi lời cầu nguyện của người ngoại quốc đó cầu xin Ngài, hầu mọi dân trên đất sẽ biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân I-sơ-ra-ên của Ngài đã làm, và thiên hạ sẽ biết rằng Ðền Thờ nầy mà con đã xây được gọi bằng danh Ngài.

44. Khi dân Ngài phải ra chiến trận đối phó với quân thù, dù lúc đó họ ở bất cứ nơi nào Ngài sai họ đến, khi dân Ngài hướng về thành nầy, thành Ngài đã chọn và Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài, mà cầu nguyện với CHÚA,

45. thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ của họ.

46. Khi họ phạm tội đối với Ngài –vì chẳng ai là không phạm tội– khiến Ngài giận họ và phó họ cho quân thù; chúng bắt họ đem lưu đày trong xứ của quân thù, bất kể xa hay gần,

47. nhưng nếu đang khi ở trong xứ bị lưu đày, họ tỉnh ngộ, ăn năn, và kêu cầu Ngài trong xứ của những kẻ bắt họ đem đi lưu đày, rằng, ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai lầm, chúng con đã làm việc gian tà,’

48. nếu họ hết lòng và hết linh hồn ăn năn trở về với Ngài trong xứ của quân thù, những kẻ bắt họ đem đi lưu đày, và hướng về xứ Ngài đã ban cho tổ tiên họ, về thành Ngài đã chọn, và về Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện,

49. thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ của họ,

50. xin Ngài tha thứ cho dân Ngài, những người đã phạm tội đối với Ngài, và tha mọi vi phạm họ đã phạm đối với Ngài, và xin Ngài cho họ được thương xót trước mặt những kẻ bắt họ đem đi lưu đày để chúng thương xót họ,

51. vì họ là dân của Ngài và là cơ nghiệp của Ngài, những người Ngài đã đem ra khỏi Ai-cập, ra khỏi lò nung chảy sắt.

52. Cầu xin mắt Ngài đoái đến lời cầu xin của tôi tớ Ngài và lời cầu xin của dân I-sơ-ra-ên của Ngài mà đoái nghe họ mỗi khi họ kêu cầu Ngài,

53. vì Ngài đã tách họ ra khỏi mọi dân trên đất, để họ làm cơ nghiệp của Ngài, như Ngài đã phán với Mô-sê tôi tớ Ngài khi Ngài đem tổ tiên chúng con ra khỏi Ai-cập, ôi lạy CHÚA Hằng Hữu. ”

54. Khi Sa-lô-môn đã dâng mọi lời cầu nguyện ấy và những lời cầu xin ấy lên CHÚA xong, ông đứng dậy trước bàn thờ CHÚA, nơi ông đã quỳ và đưa hai tay lên trời.

55. Ông đứng dậy và lớn tiếng chúc phước toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên rằng:

56. “Chúa tụng CHÚA, Ðấng ban cho dân I-sơ-ra-ên của Ngài được an nghỉ như mọi lời Ngài đã phán. Không một lời nào trong tất cả những lời hứa tốt đẹp Ngài đã cậy Mô-sê tôi tớ Ngài nói ra mà Ngài không làm cho ứng nghiệm.

57. Nguyện xin CHÚA, Ðức Chúa Trời của chúng ta, ở với chúng ta như Ngài đã ở với tổ tiên chúng ta. Nguyện xin Ngài đừng lìa và đừng bỏ chúng ta.